Sách hay: Cánh cửa cuộc đời

01

Tôi đã học được rất nhiều điều thâm thuý từ cuốn sách Tạng Thư Sinh Tử của tác giả Sogyal Rinpoche. Ngạc nhiên trước trí tuệ siêu việt của tác giả, tôi tò mò tìm tiếp sách của ông ấy. Và đây lại là một ngạc nhiên khác. Việc giải thích về ý nghĩa của cuộc đời này và cách tìm lại ý nghĩa của cuộc đời luôn là một đề tài mà tôi yêu thích. Và ở đây, tôi đã tìm thấy được những cách nhìn, cách giải thích mang tính khai sáng. Xin chia sẻ với các bạn ghi chú của các điểm tôi tâm đắc trong cuốn sách ở bên dưới.

  • Tâm: Đó là một trạng thái trung tính, không giác ngộ, thuộc về tâm sở, đã trở thành nền tảng cho mọi hành nghiệp và dấu vết của sinh tử và niết bàn. Nó có nhiệm vụ như một cái nhà kho, trong đó những dấu ấn do cảm xúc tiêu cực gây ra được tích chứa lại như những hạt giống. Khi những điều kiện thích hợp phát sinh, chúng nẩy mầm và biểu hiện thành hoàn cảnh của đời ta.
  • Chúng ta thường tự hỏi: “Tôi sẽ như thế nào khi tôi chết?” Câu trả lời là, như cái tâm trạng mà hiện thời ta đang là, loại người mà ta đang là. Ta sẽ như thế ấy khi ta chết, nếu ta không thay đổi. Đấy là lý do tại sao thực quan trọng để sử dụng cuộc đời hiện tại của mình để thanh lọc luồng tâm thức, và do đó thanh lọc con người và tính tình ta, trong khi ta còn có thể làm việc ấy.
  • Mỗi chúng ta làm một tổng thể những thói quen và hành động quá khứ, do vậy chúng ta chỉ có thể nhìn thấy sự vật bằng cái lối nhìn riêng biệt độc đáo của ta. Con người có vẻ giống nhau nhưng nhìn sự vật với cách hoàn toàn khác nhau, mỗi người sống trong một thế giới độc đáo của riêng mình.
  • Giáo lý cho ta biết cốt yếu có ba loại thấy: “Cái thấy bất tịnh, do nghiệp” của phàm phu; “Cái thấy do kinh nghiệm,” mở ra cho những người hành thiền, mà là con đường siêu việt; và “Cái thấy thuần tịnh” của những bậc giác ngộ. Một vị Phật hay người đã giác ngộ, sẽ thấy thế giới này toàn hảo một cách tự nhiên, một cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh sáng chói. Vì đã tịnh trừ những nguyên nhân gây nên cái thấy đầy nghiệp chướng, nên họ thấy mọi sự trong vẻ thiêng liêng nguyên uỷ đơn giản của nó.
  • Sở dĩ thấy mọi sự quanh ta theo kiểu ta thấy bây giờ, là vì ta luôn củng cố kinh nghiệm về thực tại bên trong và bên ngoài cùng một cách ấy đời này sang đời khác, và điều này đưa ta đến nhận thức sai lầm rằng cái gì ta trông thấy là thực hữu một cách khách quan. Kỳ thực, khi ta đi sâu hơn vào sự tu tập, ta dần biết cách làm việc thẳng với những nhận thức cố chấp của ta. Mọi khái niệm sai lầm cũ của ta về thế giới, về vật chất và về chính ta, đều được lọc sạch, tan rã, và một cái thấy hoàn toàn mới, gần như thiên nhãn mở ra, như Blake nói: “Nếu cái cửa nhận thức được lọc sạch, thì mọi sự sẽ xuất hiện nguyên vẹn bao la.”
  • “Này con biết chứ, thực sự mọi vật chung quanh ta đang biến mất, biến mất…” Thầy Dudjom Rinpoche.
  • Khi bệnh mất trí nhớ của bạn về chính mình bắt đầu được chữa khỏi, cuối cùng bạn sẽ nhận ra rằng, sự chấp thủ bản ngã, là căn nguyên mọi sự đau khổ của bạn. Bạn sẽ hiểu nó đã tàn hại bạn và kẻ khác đến mức nào, và sẽ thấy rằng điều cao quý nhất và là khôn ngoan nhất để làm là yêu thương người khác thay vì yêu thương chính mình. Việc ấy sẽ chữa lành trái tim, khối óc của bạn, và chữa lành tâm linh bạn. Điều quan trọng là luôn luôn nhớ rằng nguyên tắc vô ngã không phải là lúc đầu có một bản ngã, rồi theo Phật thì phải từ bỏ bản ngã. Trái lại, vô ngã có nghĩa là tự khởi thuỷ chưa bao giờ có một cái ngã, và nhận chân được điều này gọi là thấy “vô ngã”.
  • Cái cách để tìm được sự tự do giải thoát do trí tuệ vô ngã đem lại, là nhờ tiến trình lắng nghe, tư duy quán tưởng và thiền định. Các bậc thầy khuyên ta bắt đầu lắng nghe giáo lý thực nhiều lần (văn tuệ), và khi lắng nghe, giáo lý ấy nhắc đi nhắc lại cho ta nhớ bản tính trí tuệ bị che giấu trong ta. Giống như thể ta là người đang nằm trong bệnh viện bị mất trí nhớ sau một tai nạn, và có người yêu thương săn sóc ta đang thì thầm trong tai ta tên thật của ta, chỉ cho ta những hình ảnh bạn bè thân quyến ta, cố đưa ta trở về tri giác để biết mình là ai. Dần dần, khi lắng nghe giáo lý, có vài đoạn vài tri kiến trong đó tác động trên ta một cách mạnh mẽ, những ký ức bản lai diện mục của ta sẽ bắt đầu tìm lối quay về, và một cảm giác sâu xa về một cái gì thân thiết, quen thuộc sẽ chầm chậm thức dậy trong ta.
  • Lắng nghe là một tiến trình vô cùng khó khăn hơn phần đông người ta tưởng, lắng nghe thực sự – theo các bậc thầy muốn nói – là hoàn toàn buông bỏ cái ta, buông tất cả thông tin, khái niệm, tư tưởng và thành kiến đã được độn đầy đầu óc ta. Nếu bạn thực tình lắng nghe giáo lý, thì những thứ ấy – vốn dĩ là chướng ngại thực sự ngăn che ta với tính bản nhiên của ta – có thể từ từ được rửa sạch.
  • HIểu biết được sâu xa là nhờ quán xét và tư duy (tư tuệ), khí cụ thứ hai của trí tuệ. Khi ta quán xét những gì ta đã nghe, nó từ từ thẩm thấu vào dòng tâm thức ta và thắp khắp kinh nghiệm nội tâm về cuộc đời mình. Những sự cố gắng hàng ngày bắt đầu xác chứng sự thật của giáo lý, vì sự quán tưởng dần mở ra cho ta thấy những gì ta đã hiểu trên phương diện tri thức, sự quán tưởng mang hiểu biết ấy từ đầu óc đi vào tim ta.
  • Khí cụ thứ ba của trí tuệ là thiền định (tu tuệ). Sau khi lắng nghe giáo lý và tư duy về những lời dạy, ta đem thực hành những tri kiến ta đã đạt được và áp dụng chúng một cách trực tiếp trong nhu cầu hàng ngày, qua quá trình thiền định.
  • “Hoài nghi cao cả”: Thay vì nghi ngờ những giáo lý ấy, tại sao ta không nghi ngờ chính ta: Sự ngu dốt của ta, sự hợm hĩnh tự cho ta đã hiểu biết tất cả mọi sự, thói chấp thủ và tránh né của ta, lòng say mê đối với những cái gọi là giải thích thực tại, những giải thích không giống chút nào với trí tuệ bao la khả uý mà những bậc thầy, những sứ giả của Thực tại, đã cho ta biết?
  • Hoài nghi không phải là một cái bệnh, mà chỉ là một triệu chứng của thiếu “tri kiến”, thiếu sự nhận chân về bản tính tự nhiên của tâm. Khi có tri kiến thì không thể nào nghi ngờ gì nữa, vì khi ấy ta sẽ nhìn thực tại với chính con mắt của thực tại. Nhưng khi ta chưa đạt giác ngộ, thì đương nhiên phải còn hoài nghi, vì nghi là hoạt động căn bản của cái tâm chưa ngộ. Và cách duy nhất để xử lý những hoài nghi là, không đàn áp chúng cũng không say mê theo chúng.
  • Những đức tính kỳ diệu của những vĩ nhân là giấu kín sự thánh thiện của họ.
  • Những bậc thầy thực sự thì sự tử tế, bi mẫn, không biết mệt trong ước muốn san sẻ bất cứ trí tuệ nào họ có được từ những bậc thầy của họ, không bao giờ lợi dụng hay điều động các đệ tử dưới bất cứ hoàn cảnh nào, không bao giờ bỏ rơi họ, phụng sự cho nền giáo lý vĩ đại hơn là cho mục đích riêng tư, và luôn luôn khiêm hạ. Sự tin cậy chân thực có thể phát triển, và chỉ nên phát triển đối với một người nào bạn biết được, qua thời gian, hội đủ tất cả những đức tính ấy. Bạn sẽ thấy niềm tin ấy trở thành nền tảng của đời bạn, nó vẫn ở đấy để nâng đỡ bạn qua những gian khổ của sống chết.
  • Trong Phật giáo chúng ta xác định một bậc thầy là chân thực hay không tuỳ theo sự hướng dẫn của họ có phù hợp với giáo lý Phật dạy hay không. Ta phải luôn luôn nhấn mạnh rằng chính sự thật của giáo lý mới là tất cả tầm quan trọng, chứ không bao giờ quan trọng cá nhân của bậc thầy.
  • Khi bạn cứ tiếp tục tìm kiếm mãi, thì chính sự tìm kiếm trở thành một căn bệnh ám ảnh bạn. Bạn trở thành một khách du lịch về tâm linh, đi khắp nơi chốn mà không bao giờ tới một chỗ nào. Như Patrul Rinpoche nói: “Bạn để con voi của bạn ở nhà mà đi tìm dấu chân của nó ở trong rừng.”
  • Ta học được điều gì, nếu vào lúc chết ta không biết mình thực sự là ai?
  • Khúc quanh quan trọng trong bất cứ sự cai rượu hay cai nghiện nào là khi những người nghiện chấp nhận họ có bệnh và xin được giúp đỡ. Có thể nói chúng ta đều là những kẻ nghiện sinh tử; cái lúc sự giúp đỡ có thể đến với ta là lúc ta công nhận mình có bệnh nghiện và chỉ có việc xin cầu giúp đỡ.
  • Điều ta cần hơn bất cứ gì là tính can đảm và khiêm hạ thực sự để cầu xin sự giúp đỡ, từ đáy tim ta cầu xin lòng từ bi của bậc giác ngộ, cầu sự gạn lọc và chữa lành, cầu được khả năng hiểu thấu ý nghĩa của khổ đau và chuyển hoá nó; cầu xin trên bình diện tương đối, được tăng trưởng sự sáng suốt, bình an, khả năng phân biệt, và cầu được chứng ngộ bản chất tuyệt đối của tâm, nhờ tan hoà vào cái tâm giác ngộ bất tử của bậc thầy.
  • Hãy tưởng tượng bản tâm như cái mặt của bạn; nó luôn luôn ở với bạn, nhưng bạn không thấy được nếu không có sự giúp đỡ. Tưởng tượng rằng bạn chưa hề thấy một tấm gương. Sự khai ngộ của vị thầy là như thình lình đưa lên trước mặt bạn một tấm gương và lần đầu tiên bạn thấy được chính cái mặt của bạn phản chiếu. Cũng như mặt bạn, sự tỉnh giác thuần tuý về tự tánh tâm không phải là một cái gì bậc thầy mới đem lại cho bạn mà lâu nay bạn không có, đó cũng không là một cái gì mà bạn có thể tìm ở bên ngoài bạn. Nó vẫn luôn luôn là của bạn, nhưng cho đến lúc ấy, bạn chưa từng thực sự nhìn thấy nó một cách trực tiếp.
  • “Nếu con ở trong tâm trạng không thay đổi, đó là Tâm bản nhiên.” – Dudjom Rinpoche.
  • Tâm bản nhiên là một trạng thái trong đó không còn một hoài nghi nào, thực sự không có cái tâm nào để hoài nghi. Bạn thấy một cách trực tiếp. Nếu bạn ở trong trạng thái ấy, thì một niềm vui, một xác tính tự nhiên khởi lên cùng với Tâm bản nhiên, làm cho bạn biết.
  • Những bậc thầy nhấn mạnh rằng muốn ổn định Kiến trong thiền định, cốt yếu trước hết là hoàn tất sự luyện tập này trong một khung cảnh đặc biệt của nhập thất, ở đấy mọi điều kiện thuận lợi đều sẵn có. Còn ở giữa sự tán loạn rộn ràng của thế gian thì dù bạn có thiền bao nhiêu, kinh nghiệm thực thụ cũng không phát sinh được trong tâm bạn. 
  • Thứ 2, mặc dù trong Dzogchen không có sự khác biệt giữa thiền và đời sống thường nhật, song khi bạn chưa có được sự an trú thực sự vững vàng nhờ thiền tập vào những thời khoá hẳn hoi, thì bạn không thể nào hội nhập tuệ giác của thiền định vào kinh nghiệm hàng ngày.
  • Thứ 3, ngay cả khi bạn thực hành, bạn có thể an trú dòng tương tục Tâm bản nhiên với niềm tin của Kiến; nhưng nếu bạn không thể tiếp tục dòng ấy vào mọi lúc và mọi tình huống, hoà lẫn sự tu tập với đời sống hàng ngày của bạn, thì nó sẽ không làm phương thuốc cứu bạn được, mỗi khi hoàn cảnh khó chịu khởi lên, và bạn sẽ bị ý tưởng, cảm xúc dẫn cho lạc vào mê vọng.
  • Bạn không bám víu cũng không xua đuổi những ý tưởng cảm xúc, mà chào đón tất cả chúng trong vòng ôm lớn rộng của Tâm bản nhiên. Những gì mà trước đây bạn coi là rất quan trọng – những tham vọng, kế hoạch, mong đợi, hoài nghi, đam mê – không còn khống chế bạn một cách sâu xa nữa, vì chánh kiến đã giúp bạn thấy được cái trống rỗng, phi lý của tất cả chúng nó, nhờ vậy phát sinh trong bạn một tinh thần từ bỏ thực sự.
  • An trú trong niềm tin và ánh sáng của Tâm bản nhiên làm cho những ý tưởng cảm xúc của bạn được giải toả một cách tự nhiên không cần nỗ lực, vào trong không gian rộng lớn của Tự tính tâm, giống như là viết chữ trên nước hay vẽ trên nền trời. Nếu bạn thật sự tu tập như thế đến chỗ toàn vẹn, thì nghiệp không còn cơ hội để tích luỹ, và trong trạng thái buông xả hoàn toàn ấy, định luật nhân quả trong vòng nghiệp báo không còn cách nào trói buộc bạn.
  • Đừng tưởng điều ấy là dễ. Thật vô cùng gay go để an trú không xao lãng trong Tự tánh của tâm, dù chỉ trong chốc lát, chứ đừng nói đến giải toả một ý niệm hay cảm xúc ngay khi nó sinh khởi. Chúng ta thường cho rằng chỉ vì mình hiểu được một điều gì trên phương diện tri thức, hoặc tưởng mình đã hiểu, mà việc ấy có nghĩa rằng mình đã thật sự đạt ngộ. Đấy là một ảo tưởng lớn lao. Cần phải có sự chín mùi, thuần thục của sự tu tập, qua nhiều năm học lắng nghe, tư duy, quán tưởng, thiền định, và thực hành kiên trì. Và nhất là sự thực hành Dzogchen luôn luôn cần sự hướng dẫn và khai đạo của một bậc thầy đủ tư cách.
  • Ngay cả trong một hành giả Dzogchen cao cấp nhất, nỗi buồn niềm vui, hy vọng sợ hãi vẫn còn nổi lên như trước. Cái khác nhau giữa một người thường với một hành giả là cái cách họ nhìn những cảm xúc đó của họ và phản ứng đối với những cảm xúc đó. Một người thường sẽ theo bản năng mà chấp nhận hay chối bỏ ngay những cảm xúc, và thế là khởi dậy ràng buộc hoặc chán ghét, kết quả là tích luỹ thêm ác nghiệp. Nhưng một hành giả Dzogchen thì nhận ra mọi sự khởi lên trong trạng thái trong sáng tự nhiên của nó, không để cho sự chấp thủ khởi lên trong nhận thức của mình.
  • Dilgo Khientse Rinpoche mô tả một hành giả lang thang qua một khu vườn. Ông hoàn toàn tỉnh giác trước vẻ đẹp huy hoàng của những đoá hoa, thưởng thức màu sắc, hình dáng, mùi hương của chúng. Nhưng không có dấu vết nào của sự bám víu ở nơi ông, hay bất cứ một “hậu ý” nào trong tâm.

Leave a Reply